ClockChủ Nhật, 27/06/2010 08:50

Vua Hàm Nghi trong truyện ký của Sepkina Kibernik

TTH - Lịch sử Việt Nam từng được đánh giá qua con mắt người nước ngoài với nhiều công trình biên khảo, nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Nhưng lịch sử Việt Nam trở thành nguồn cảm hứng rồi đi vào văn học nước ngoài là không nhiều.
Độc giả Việt Nam từng biết đến tiểu thuyết Vạn Xuân của nhà văn nữ người Pháp - Yveline Féray - dày tới hơn 1.200 trang viết về Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, về thời đại họ sống và tấn thảm kịch Lệ Chi Viên, Độc giả cũng từng biết đến một số tác phẩm nước ngoài viết về chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch mùa xuân 1975…
 
Trong văn chương Nga đầu thế kỷ XX, những biến cố lịch sử của Việt Nam vào thời kỳ này đã tác động lên tình cảm của nữ văn sĩ kiêm kịch tác gia của Nga là bà Tachiana Lvovna Sepkina Kibernik. Bấy giờ, năm 1902, Sepkina Kibernik mới 28 tuổi nhưng đã là một nữ sĩ nổi tiếng của xứ sở bạch dương, nhất là ở lĩnh vực sân khấu, mà sau này giới nghiên cứu đánh giá rất cao về sự đóng góp của bà đối với nền sân khấu nước Nga.
 
Mùa xuân năm 1902, khi đến Angiêri, bà từng được gặp gỡ và trò chuyện với vua Hàm Nghi (vua Hàm Nghi lúc này đang bị thực dân Pháp đưa đi đày tại Angiêri). Và sau cuộc gặp gỡ ấy, Sepkina Kibernik viết nên một truyện ký khá xúc động với tựa đề là Hoàng tử Lý Tông.
 
Theo lịch sử thì năm 1884, vua Hàm Nghi lên ngôi khi mới 13 tuổi trong giai đoạn lịch sử hết sức cam go, chủ quyền đất nước đã bị đặt dưới ách thực dân. Có tư tưởng phản kháng chính quyền thực dân, nhà vua đã trở thành người đứng đầu phong trào Cần Vương, tuyên hịch kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập dân tộc. Đêm 26-8-1888, nhà vua bị Pháp bắt, khi đó mới 17 tuổi và phong trào Cần Vương mới được 3 năm.
 
Đám cưới vua Hàm Nghi năm 1904
Ngày 13-12-1888, con tàu Biên Hoà chở vua Hàm Nghi đi đày ở Bắc Phi. Ngày 13-01-1889, nhà vua đến thủ đô Alger (Angiêri), bắt đầu cuộc sống lưu vong. Năm 1904, ông kết hôn với cô con gái của Chánh toà Thượng thẩm Alger, cô dâu là Marcelle Laloe. Đám cưới của nhà vua đã trở thành một sự kiện xã hội. Sau đám cưới, họ sinh được người con: hoàng nữ Như Mai (1905); Như Lý (1908) và hoàng nam Minh Đức (1910). Ngày 04-01-1944, vua Hàm Nghi qua đời tại biệt thự Gia Long ở thủ đô Alger vì căn bệnh ung thư dạ dày.
 
Thời gian vào cuối năm 1902, sau lần gặp gỡ ấy, vua Hàm Nghi đã nhiều lần viết thư trao đổi, liên lạc với Sepkina Kibernik.
 
Trong phần đầu tác phẩm, Sepkina Kibernik miêu tả nhân vật với một thủ pháp ngôn ngữ huyền ảo, lãng mạn. Cái tên gọi nhân vật Lý Tông với màu sắc hư cấu, ngoài là lẽ thường của tác phẩm văn học, còn có thể giải thích bằng lý do như một sự “phòng vệ”, tránh được sự kiểm duyệt trong hoàn cảnh bấy giờ.
 
Đối chiếu các sự kiện trong cuộc đời Hàm Nghi và nhân vật Lý Tông của Sepkina Kibernik như: từ địa điểm tù đày đến biệt thự cách không xa thành phố Alger, từ tài năng nghệ sĩ đến sự quan tâm đến học thuyết Nho giáo; rồi diện mạo tinh thần và vóc dáng thực sự của nhân vật với vua Hàm Nghi, đều có tthể khẳng định các chi tiết và cốt truyện đều nói về vua Hàm Nghi.
 
Bằng thủ pháp xây dựng truyện với ngôn ngữ huyền ảo giàu chất của một câu chuyện cổ tích, Sepkina Kibernik đã đưa người đọc vào một thế giới thuộc về phương Đông, vừa xa xôi vừa gần gủi; vừa mông lung, vừa hiện thực. Câu chuyện dẫn người đọc như lạc dần vào thế giới cổ tích, điều đặc biệt thế giới cổ tích ấy không có những vẻ ly kỳ, thần bí, mà nó hiện lên chân thật, có thể ví như thế - giới - An- đec- xen với chất triết luận. Một đất nước xa xôi với cảnh bị xâm lược được mô tả: “Vào một buổi sáng bất hạnh xuất hiện những người phương Tây cùng với vũ khí sáng lòa và những viên đạn thảm khốc, chúng đem lại sự hủy hoại”.          
 
Những đặc trưng của Việt Nam cũng dần hiện lên qua mô tả của Sepkina Kibernik. Bằng những nét chấm phá về vùng văn hóa Viễn Đông, nữ nhà văn đã nhiều lần đề cập đến vẻ nhỏ nhắn, duyên dáng của những con người phương Đông học thức của thời kỳ ấy. Đó cũng là những ấn tượng   về truyền thống giáo dục “được dạy dỗ bởi những bậc hiền triết của đất nước mình”, “theo đạo Nho và tôn thờ những giáo lý của nó".
 
Thủ pháp hiện thực lấn át tính cổ tích của câu chuyện, lịch sử hiện lên khá trung thực: “Chàng bị bọn thực dân bắt và bị đưa đi đày. Theo sự lựa chọn của những ông chủ mới của đất nước chàng - trên ngai vàng của cha ông chàng đang ngự trị những bóng ma câm lặng, - còn chàng thì bị giữ làm con tin vĩnh viễn, suốt cuộc đời.” Và vị Hoàng tử kia đã phải từ biệt quê hương để sống cảnh lưu đày: “Ở đó là Tổ quốc chàng; còn ở đây là bậc thang để đi đến nấm mồ.
 
Qua câu chuyện, chúng ta còn có thể biết đến một số thói quen trong ứng xử đã được vua Hàm Nghi giữ lại. Sepkina Kibernik đã kể về hai nhân vật trẻ tuổi tự nguyện theo nhà vua trong cảnh tù đày: “Họ đi lại nhẹ nhàng dường như không có tiếng động trên những chiếc đế giày màu trắng. Còn khi hoàng tử quay về phía họ hỏi bằng tiếng mẹ đẻ, họ trả lời rì rầm chỉ đủ để nghe, giống như tiếng của những chiếc chén trà Trung Hoa nhỏ nhắn chạm nhau và ngân vang trên khay nước.” Điều này cũng nói lên những hành vi ứng xử văn hóa của những con người theo vua đến tận chốn lưu đày, họ dành cho vị vua này một tình cảm tôn thiệp, ý nhị như đang ở chốn cấm cung.
 
 Di ảnh vua Hàm Nghi thờ tại lâu đài De la Nauche (Pháp)
 
 
Khi đến Angiêri, trong tâm trạng của một người chịu cảnh lưu đày, tâm trạng một người vốn từng đứng đầu một đất nước, thời gian đầu, vua Hàm Nghi ông định sống thu mình, yếm thế, cố tình cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đó là phản ứng tự nhiên và rất lấy làm khó chịu đối với những gì liên quan tới Tây, tới Pháp.
 
Trong truyện ký của Sepkina Kibernik, điều này lại mọt lần nữa được khẳng định qua đoạn đối thoại giữa nhân vật trữ tình (một tiểu thư, cũng là tác giả) với nhân vật chính của câu chuyện (hoàng tử Lý Tông - vua Hàm Nghi): “- Ngài thật sai lầm khi không đem những tác phẩm của mình đi triển lãm tại Paris, thưa hoàng tử!” “- Vậy mà tôi lại cho rằng mình sẽ sai lầm khi đem tranh đi triển lãm tại Paris!”.
 
Dân chúng chờ đợi xe đám cưới của vua Hàm Nghi
 
 
Đoạn trên cũng rất sát hợp với lịch sử, khi mới bị đi đày, vua Hàm Nghi đã khước từ việc học tiếng Pháp, nhưng sau đó ông thay đổi quan điểm của mình. Vua Hàm Nghi bắt đầu quan tâm đến văn hóa châu Âu, đặc biệt ông rất yêu thích hội họa, mà sau này hội họa trở thành thành nghề nghiệp của ông. Nhà vua vẽ nhiều tranh và bắt đầu được biết đến trong tư cách là một họa sĩ.
 
Kết thúc chuyện, Sepkina Kibernik nhận xét về nhân vật chính trong tác phẩm này như sau: “Cái dáng dấp mảnh khảnh của hoàng tử trong bộ trang phục nửa Đông nửa Tây ngay lập tức đưa cho tôi một sự chú ý đặc biệt. Chiếc khăn trắng trùm lên búi tóc dài, chiếc áo dài đen với hai ống tay rộng may bằng lụa vàng tươi - màu của quê hương ông - nước da bánh mật ngà ngà, đôi mắt đen ảm đạm thông minh nhưng xếch ngược lên phía thái dương, tay chân gầy gò. Tất cả làm cho người ta liên tưởng tới một pho tượng nhỏ, quý giá do bàn tay tài ba của các nghệ sĩ phương Đông tạo nên(*).
 
Tình cảm chân thành của Sepkina Kibernik dành cho một vị vua bị lưu đày trong hoàn cảnh xã hội như thế thật đáng trân trọng. Tác phẩm của bà đã bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu về vua Hàm Nghi trong quãng thời gian bị lưu đày tại An-giê-ri.
 
Hải Trung
 
 
(*)Các trích dẫn theo bản dịch của Lương Lê Giang in trong Dòng chảy văn hóa Việt Nam (của N.I.Niculin), Nxb. VHTT, Hà Nội, 2006.
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Vài chuyện ở địa danh Phủ Cam

Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn, địa danh Phủ Cam ra đời cùng thời với Phủ Dương Xuân dưới thời các chúa Nguyễn. Cho nên phải gọi là Phủ Cam mới đúng.

Vài chuyện ở địa danh Phủ Cam
Tìm về truyền thống thủy quân ở làng xã vùng Huế

Trong lịch sử vùng Huế, những ngôi làng Việt cổ thường nằm dọc lưu vực sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương. Từ làng xã “gốc” phát triển về thượng nguồn hoặc hạ lưu, hình thành những làng “ngọn”. Vùng đất Phú Lộc, ngoài lưu vực sông Truồi, còn có dải cồn cát ven biển và đầm phá có vị trí chiến lược, vành đai an ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng, để bảo vệ Kinh đô Huế.

Tìm về truyền thống thủy quân ở làng xã vùng Huế
Vài nghi vấn từ bia mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ

Trong khuôn viên di tích nhà lưu niệm danh nhân Phan Bội Châu, ngoài di tích nhà ở, nhà thờ và lăng mộ của cụ Phan, còn có nhiều lăng mộ, bia tưởng niệm… của các chí sĩ yêu nước được đưa vào đặt, an táng ở đây; trong đó, có lăng mộ của nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ, một trong những nhân vật được xem là biểu tượng của tinh thần chống Pháp bất khuất cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, ít ai biết vì sao lăng mộ của ông lại được đưa vào an táng trong khuôn viên di tích nhà lưu niệm Phan Bội Châu.

Vài nghi vấn từ bia mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ

TIN MỚI

Liên kết hữu ích
Return to top