ClockThứ Sáu, 23/07/2010 21:42

Chính sách tôn vinh và đãi ngộ “Báu vật nhân văn sống” ở một số nước Châu Á – Liên hệ với Việt Nam

TTH - Việt Nam hiện có hai di sản văn hóa được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hóa phi vật thể biểu trưng của nhân loại. Đó là Nhã nhạc triều Nguyễn và Không gian Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Ngoài ra, Quan họ Bắc Ninh và Ca trù cũng đang được các cơ quan chức năng của Việt Nam xây dựng hồ sơ để đệ trình UNESCO xem xét công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể biểu trưng của nhân loại trong thời gian sắp tới.

Di sản văn hóa phi vật thể không tồn tại dưới dạng vật chất và chủ yếu được lưu truyền cho đời sau bằng hình thức truyền khẩu. Vì thế, nghệ nhân - người nắm giữ nội dung di sản văn hóa phi vật thể có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại và phát triển của di sản văn hóa phi vật thể. Họ chính là “linh hồn”, là “báu vật sống” trực tiếp tham gia sáng tạo, lưu giữ, truyền dạy và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì điều này nên UNESCO đã khuyến nghị các quốc gia thành viên thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống nhằm công nhận, tôn vinh và đãi ngộ những người đang nắm giữ các kiến thức, kỹ năng và bí quyết cần thiết cho việc trình diễn, sáng tạo và trao truyền những di sản văn hóa phi vật thể mang giá trị tiêu biểu ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.

Trong thời đại toàn cầu hóa, nhiều quốc gia trên thế giới đang nỗ lực bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, coi đó là phương thức thể hiện bản lĩnh văn hóa của dân tộc mình với thế giới. Từ thập niên 50 - 60 của thế kỷ trước, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia khác ở châu Á đã ban hành những chính sách nhằm công nhận, tôn vinh và đãi ngộ các cá nhân và tập thể có công lao trong việc gìn giữ và lưu truyền vốn di sản văn hóa dân tộc cho các thế hệ tương lai.
 
Bài viết này đề cập những chính sách tôn vinh và đãi ngộ Báu vật nhân văn sống của một số nước ở châu Á trong mối liên hệ và so sánh với Việt Nam. Thông qua việc so sánh và đánh giá này, chúng tôi cũng đưa ra một số kiến nghị đối chính sách tôn vinh và đãi ngộ Báu vật nhân văn sống ở nước ta hiện nay với hy vọng nhà nước và các cấp chính quyền sẽ có những điều chỉnh, bổ sung để chính sách này trở nên thiết thực, khả dụng hơn và những Báu vật nhân văn sống của nước nhà sẽ thật sự nhận được sự tôn vinh và đãi ngộ một cách xứng đáng.
 

Nghệ sĩ Thanh Tâm và các nhạc công Huế trong chương trình Âm sắc Việt
 
Một vài khái niệm
 
Khái niệm Báu vật nhân văn sống (Living Human Treasures) được đưa ra trong Khuyến nghị của UNESCO về việc Bảo vệ văn hóa cổ truyền và văn hóa dân gian được thông qua tại kỳ họp của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 25 ở Paris vào ngày 15.11.1989. Theo đó, “Báu vật nhân văn sống là những người có kiến thức và kỹ thuật ở cấp độ rất cao cần thiết cho việc biểu diễn hay sáng tạo các yếu tố của di sản văn hóa phi vật thể mà các quốc gia thành viên đã lựa chọn như một bằng chứng cho truyền thống văn hóa sống của mình và cho tinh thần sáng tạo của các nhóm, các cộng đồng và các cá nhân hiện diện trên đất nước mình”. Khái niệm Báu vật nhân văn sống tiếp tục được sử dụng tại điều 2 của Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể do Đại hội đồng UNESCO thông qua vào năm 2003. Đến nay, hơn 80 quốc gia thành viên của UNESCO (trong đó có Việt Nam), tham gia và phê chuẩn công ước này.

- Nhật Bản là quốc gia đầu tiên đề ra chính sách tôn vinh Báu vật nhân văn sống. Luật Bảo vệ Tài sản Văn hóa (文 化 財 保 护 法: Văn hóa tài bảo hộ pháp) do chính phủ Nhật Bản ban hành năm 1950 đã sử dụng thuật ngữ Jūyō mukei bunkazai hojisha (重 要 無 形文 化 財 保 特 者: Trọng yếu vô hình văn hóa tài bảo đặc giả) để chỉ “những cá nhân (hoặc nhóm người) đang nắm giữ và phổ biến những kỹ năng và bí quyết nhằm lưu truyền những tài sản văn hóa phi vật thể quan trọng của đất nước cho các thế hệ tương lai”. Từ sau năm 1955, người Nhật thường sử dụng khái niệm Ningen kokuhō (人 間 国 宝: Nhân gian quốc bảo) để thay thế cho thuật ngữ Jūyō mukei bunkazai hojisha. Việc tôn vinh Ningen kokuhō không chỉ dành cho những cá nhân có cống hiến kiệt xuất mà còn dành cho những nhóm người đang nắm giữ, bảo tồn và truyền dạy cho cộng đồng những kỹ năng và bí quyết nghề nghiệp có nguy cơ thất truyền.

- Năm 1964, chính phủ Hàn Quốc bổ túc vào Đạo luật số 961 về Bảo vệ Tài sản Văn hóa (ban hành năm 1962) thuật ngữ Poyuja (保手 者: Bảo thủ giả) để chỉ những người (hay nhóm người) đang nắm giữ những tài sản văn hóa phi vật thể có giá trị về mặt lịch sử, nghệ thuật và học thuật”. Sau này, phỏng theo mô hình Nhật Bản, Hàn Quốc thường sử dụng thuật ngữ Inganmunhwajae (人 間 文 化 者: Nhân gian văn hóa giả) thay cho thuật ngữ Poyuja đã sử dụng trong các văn bản trước đây.
 
- Philippines thì dùng khái niệm Manlilikha ng Bayan để tôn vinh “những công dân, hay nhóm người đang nắm giữ bất kỳ một nghệ thuật truyền thống độc đáo nào của Philippines, những người sở hữu những kỹ năng đặc biệt, tiếp cận ở trình độ cao những tuyệt kỹ nghệ thuật và bí quyết từ quá khứ và thực hành rộng rãi trong thế hệ hiện tại với một trình độ tương đương những khả năng nghệ thuật và kỹ thuật như trong quá khứ” (Mục 3, Đạo luật Cộng hòa 7355).
 
- Thailand tôn vinh “những nghệ nhân lành nghề, người sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật vô giá vì lợi ích và những mục đích tốt đẹp của quốc gia” là những Nghệ sĩ quốc gia (National Artist).
 
- Ở Pháp, năm 1994, Bộ Văn hóa Pháp đã vinh danh những “thợ thủ công nổi tiếng, nắm giữ những kiến thức và kỹ năng đặc biệt trong nghề nghiệp, có trách nhiệm trao truyền những kiến thức và kỹ năng ấy cho các thế hệ mai sau” là những Bậc thầy nghệ thuật (Maitres d’art).
 
- Người Czech gọi những Báu vật nhân văn sống của đất nước mình là Người mang trên mình truyền thống thủ công nổi tiếng (Bearers of Popular Craft Tradition).
 
- Ở Việt Nam, việc công nhận và tôn vinh những người có nhiều cống hiến trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khá rối rắm và không nhất quán:
 
+ Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dânNghệ sĩ ưu tú cho những cá nhân có cống hiến đặc biệt trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật. Phần lớn những người này đều thuộc diện “biên chế nhà nước”, hoạt động trong các tổ chức, cơ quan do nhà nước quản lý;
 
+ Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (Hội VNDG Việt Nam) phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho những cá nhân có nhiều cống hiến trong lĩnh vực bảo tồn, truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa dân gian, dựa theo tiêu chí công nhận Báu vật nhân văn sống của UNESCO. Theo Quy chế công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội VNDG Việt Nam thì: “Nghệ nhân dân gian cần phải hội đủ ba tiêu chuẩn và nghĩa vụ: nắm giữ và thực hành ở trình độ những giá trị, kỹ năng, bí quyết văn hóa - văn nghệ dân gian; sẵn sàng và có khả năng truyền dạy toàn bộ hiểu biết của mình cho thế hệ trẻ; khi được hội yêu cầu, sẵn sàng cung cấp, thực hành, trình diễn những vốn hiểu biết của mình về văn hóa văn nghệ dân gian để hội tiến hành sưu tầm, lưu giữ”.
 
+ Một số bộ, ngành, địa phương còn có những văn bản công nhận và tôn vinh những nghệ nhân hoạt động trong các ngành nghề thủ công truyền thống (không bao gồm các nghệ sĩ trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật) với các danh hiệu như: Nghệ nhân (do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Văn hóa Thông tin liên kết ban hành ngày 30.5.2002), Nghệ nhân Hà Nội (do UBND thành phố Hà Nội ban hành ngày 2.10.2003) hay Nghệ nhân Nhân dânNghệ nhân Ưu tú (do Bộ Công nghiệp ban hành ngày 11.1.2007).
 

Không gian thưởng ngoạn Âm sắc Việt tại Festival Huế - ảnh H.Nhi
 
Chính sách tôn vinh, đãi ngộ báu vật nhân văn ở một số nước châu Á
 
*Ở Nhật Bản:
 
Theo Luật Bảo vệ Tài sản Văn hóa của Nhật Bản thì Tài sản văn hóa phi vật thể của Nhật Bản được phân thành 3 loại hình:

- Tài sản văn hóa phi vật thể: gồm ca kịch, âm nhạc, nghề thủ công và những sản phẩm văn hóa phi vật thể khác hàm chứa những giá trị lịch sử, nghệ thuật của Nhật Bản.  

- Tài sản văn hóa dân gian văn hóa phi vật thể; gồm các thành tố cần thiết cho sự thay đổi nhận thức trong đời sống hàng ngày của người Nhật như: các phong tục, tập quán liên quan đến ẩm thực, trang phục, nơi ăn chốn ở, nghề nghiệp, tôn giáo, tín ngưỡng, các lễ hội thường niên và những vấn đề khác như nghệ thuật trình diễn dân gian, tri thức kỹ thuật dân gian.
 
- Những kỹ thuật bảo tồn di sản văn hóa: gồm những kỹ thuật truyền thống hoặc các kỹ năng không thể thiếu trong việc bảo tồn các di sản văn hóa.
 
Năm 1955, Nhật Bản nhận thức rằng việc công nhận Tài sản văn hóa phi vật thể quan trọng hay bình chọn Những kỹ thuật bảo tồn di sản văn hóa cần phải đồng hành với việc công nhận sự cống hiến của những cá nhân (và những nhóm người) nắm giữ tri thức, kỹ năng liên quan đến việc bảo tồn và phát huy tài sản văn hóa phi vật thể. Bởi lẽ, nếu không tiếp cận và có chính sách tôn vinh, đãi ngộ đối tượng này thì không thể bảo tồn và phát huy hiệu quả các di sản văn hóa phi vật thể. Do vậy, năm 1955 Nhật Bản bổ sung thêm vào Luật Bảo vệ Tài sản Văn hóa những điều khoản cụ thể nhằm tôn vinh đối tượng này và gọi họ là Jūyō mukei bunkazai hojisha (Người nắm giữ những di sản văn hóa phi vật thể quan trọng). Tuy nhiên, trên thực tế người Nhật thường sử dụng thuật ngữ Ningen kokuhō (Báu vật sống của quốc gia) để tôn vinh những người này, dù thuật ngữ Ningen kokuhō không xuất hiện chính thức trong các văn bản pháp quy do chính phủ ban hành.          
 
Danh hiệu Ningen kokuhō được phong tặng cho các bậc thầy trong các lĩnh vực: chế tác sản phẩm thủ công truyền thống của Nhật Bản như: làm tranh ukyio-e, làm giấy, rèn kiếm, dệt vải, chế tác đồ gốm; hay những bậc thầy của nghệ thuật biểu diễn matsuri (các loại hình ca kịch truyền thống của Nhật Bản như: noh, kabuki, kagura, taiko…). Tính đến tháng 1.1994, Nhật Bản đã công nhận 7 loại hình thuộc lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật (với 36 kỹ năng đặc trưng) và 9 loại hình thuộc lĩnh vực nghệ thuật ứng dụng là Jūyō mukei bunkazai (Tài sản văn hóa phi vật thể quan trọng), với 52 cá nhân và 23 tập thể được tôn vinh là Ningen kokuhō (Nhân gian quốc bảo).
 
Hàng năm, mỗi Ningen kokuhō được nhận một khoản tài trợ đặc biệt từ chính phủ lên đến 2 triệu yen (xấp xỉ 20.080 USD) để phát triển kỹ năng và kiến thức của họ, giúp họ yên tâm truyền dạy cho truyền nhân kế nghiệp những kỹ năng và kiến thức mà họ đang nắm giữ. Các Ningen kokuhō còn được chính phủ trợ giúp kinh phí cho các chương trình đào tạo kỹ năng và kinh nghiệm cho các thế hệ kế cận, cũng như kinh phí để họ tổ chức những cuộc triển lãm sản phẩm do họ làm ra, hoặc những cuộc trình diễn những kỹ năng và kiến thức của họ cho công chúng thưởng ngoạn.
 
Chính phủ Nhật Bản cũng trợ cấp một phần tài chính cho các tập thể và các hội bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang tiến hành những hoạt động nghiên cứu, truyền dạy và khai thác các di sản văn hóa này.
 
* Ở Hàn Quốc
 
Năm 1962, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Đạo luật số 961 về Bảo vệ Tài sản Văn hóa nhằm “đấu tranh cho sự trau dồi văn hóa của con người và góp phần vào sự phát triển của văn hóa nhân loại từ việc thừa hưởng văn hóa dân tộc nhờ vào việc bảo vệ những tài sản văn hóa này để bảo đảm cho việc sử dụng tài sản văn hóa của con người”. Đạo luật này phân định 4 loại hình Tài sản văn hóa phải bảo vệ gồm: Tài sản văn hóa vật thể trọng yếu; Tài sản văn hóa phi vật thể trọng yếu; Tài sản văn hóa dân gianCông trình kỷ niệm. Đến tháng 9.1995, Hàn Quốc đã công nhận 92 di sản văn hóa của đất nước là Tài sản văn hóa phi vật thể trọng yếu với 167 cá nhân và 50 tập thể được tôn vinh là Inganmunhwajae (Nhân gian văn hóa giả).
 
Việc bình chọn các nghệ sĩ, nghệ nhân để tôn vinh Inganmunhwajae được tiến hành thông qua một Ủy ban Bình chọn Quốc gia gồm những thành viên là các học giả có uy tín, những nghệ nhân nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và các quan chức cao cấp trong Tổng cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc. Quy trình bình chọn này bao gồm 6 bước: Nộp hồ sơ ứng cử - Thẩm tra hồ sơ - Trình diễn /thực hành - Thông báo sơ tuyển - Hội đồng bình xét - Thông báo kết quả.

Sau khi được phong tặng, các Inganmunhwajae được hưởng một chế độ đãi ngộ xứng đáng. Họ được chính phủ Hàn Quốc trả lương hàng tháng; được cung cấp bảo hiểm y tế; được khám chữa bệnh miễn phí và được chu cấp tiền phí tổn đám tang khi họ qua đời. Môn đệ đang trực tiếp học nghề từ các Inganmunhwajae cũng được nhận phụ cấp hàng tháng và được hỗ trợ trong các dự án phát triển nghề nghiệp do các Inganmunhwajae truyền dạy. Các Inganmunhwajae còn được hưởng những chăm sóc đặc biệt của chính phủ trong trường hợp đất nước có chiến tranh hay xung đột vũ trang và trong các tình huống khẩn cấp khác. Nếu Inganmunhwajae là người có hoàn cảnh sống khó khăn thì ngoài những đãi ngộ thông thường, họ còn được hưởng trợ cấp bổ sung.

Chính quyền Hàn Quốc phân định các Inganmunhwajae theo 2 lĩnh vực: nghệ thuật diễn xướng dân giannghề thủ công truyền thống. Trong lĩnh vực nghệ thuật diễn xướng dân gian lại phân thành 2 loại: cá nhân (individuals) và nhóm người (groups). Tính đến tháng 5.2004, Hàn Quốc đã phong tặng danh hiệu Inganmunhwajae cho 214 cá nhân và nhóm người, trong đó có 34 cá nhân, 114 nhóm người thuộc lĩnh vực nghệ thuật diễn xướng dân gian và 66 nhóm người thuộc lĩnh vực nghề thủ công truyền thống
 
Trả lời phỏng vấn tạp chí Tia sáng, ông Kim Sang Ug, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Hà Nội cho biết: “Hàng năm, Tổng cục Di sản (Hàn Quốc) được đầu tư khoảng 450 triệu USD. Trong đó, có khoảng 350 triệu USD dành cho các dự án và kế hoạch bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Trong đó, chúng tôi nhấn mạnh đến văn hóa con người, những “di sản sống” là các nghệ sĩ, nghệ nhân lưu giữ những kỹ năng văn hóa truyền thống trong nghề nghiệp của họ. Chúng tôi có một ủy ban để chọn các nghệ sĩ, nghệ nhân thuộc diện “di sản”, và hàng năm họ có một khoảng lương nhất định, trung bình một nghệ nhân như vậy được hưởng 1.100 USD/tháng. Chưa kể họ còn được hưởng tiền riêng khi tham gia biểu diễn hoặc bán các sản phẩm văn hóa họ tạo ra. Những học trò xuất sắc của các nghệ nhân này cũng có những khoản viện trợ để kế thừa. Các buổi biểu diễn của các nghệ nhân được ghi lại tư liệu hình ảnh, âm thanh rất kỹ lưỡng”.
 
* Ở Philippines:
 
Sắc lệnh Tổng thống ban hành năm 1973 có điều khoản National Artists nhằm tôn vinh và đãi ngộ những người có công trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển các loại hình văn hóa nghệ thuật của Philippines. Đến năm 1988, Hiệp hội Nghề nghiệp Makati-Ayala của Philippines bắt đầu trao tặng danh hiệu Gawad sa Manlilikha ng Bayan (thường gọi tắt là Gamaba) cho những nghệ nhân xuất sắc hoạt động trong lĩnh vực thủ công và mỹ nghệ. Năm 1992, Philippines ban hành Đạo luật số 7355 về việc trao tặng giải thưởng quốc gia cho các Manlilikha ng Bayan (Mục 3, Đạo luật Cộng hòa 7355), theo đó họ được hưởng lương hàng tháng và được bảo hiểm y tế trọn đời cùng nhiều khoản đãi ngộ về nhà ở và điều kiện làm việc.
 
* Ở Thailand:
 
Từ năm 1985, chính phủ Thailand thực thi chương trình National Artists Project để tôn vinh những Nghệ sĩ quốc gia (National Artists) và dành cho họ những ân thưởng xứng đáng bằng vật chất. Theo đó, những Nghệ sĩ quốc gia của Thailand sẽ được nhận lương hàng tháng; được chăm sóc y tế miễn phí suốt đời, được trợ cấp tài chính khi gặp tai nạn; được thăm viếng và tặng quà khi họ đau ốm hoặc trong những dịp đặc biệt; được nhà nước mua bảo hiểm tai nạn và thương tật khi họ gặp tai nạn trong bất kỳ trường hợp nào, kể cả khi họ hành nghề hay đi du lịch và gia đình của họ sẽ được nhận tiền tử tuất sau khi các Nghệ sĩ quốc gia này qua đời. Ngược lại, họ có trách nhiệm bảo tồn và truyền dạy những kiến thức, kỹ năng, bí quyết mà họ đang nắm giữa cho các thế hệ kế cận thông qua các hình thức: trực tiếp giảng dạy, huấn luyện, viết sách, thuyết trình, trình diễn…
 

Nghệ sĩ Bạch Tuyết - người "giữ lửa" cho cải lương
 
Chính sách tôn vinh, đãi ngộ nghệ nhân dân gian ở Việt Nam
 
* Chính sách tôn vinh và đãi ngộ của nhà nước:
 
Ở Việt Nam, chính sách tôn vinh và đãi ngộ những nghệ nhân có nhiều cống hiến trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể xuất hiện lần đầu tiên trong Luật Di sản Văn hóa (do Quốc hội khóa X thông qua ngày 29.6.2001, có hiệu lực từ ngày 01.01.2002). Chương 3, điều 26 của Luật Di sản Văn hóa quy định: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”. Tiếp đến, tại Chương 12, điều 12 của Nghị định 92/2002/NĐ-CP ngày 11.11.2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản Văn hóa về việc tôn vinh và chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có công lao bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ghi rõ: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ thông qua các biện pháp sau đây: 1. Tặng thưởng, truy tặng Huân chương, Huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các hình thức tôn vinh khác đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công bảo tồn, phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp thuộc di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu theo quy định của pháp luật; 2. Tạo điều kiện và hỗ trợ một phần chi phí cho các hoạt động sáng tạo, biểu diễn, trưng bày, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công bảo tồn, phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp thuộc di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu; 3. Trợ cấp sinh hoạt hàng tháng và một số ưu đãi khác đối với nghệ nhân, nghệ sĩ đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn và vùng đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật”.
 
*Thực trạng triển khai chính sách tôn vinh và đãi ngộ ở Việt Nam
 
Mặc dù nhà nước đã ban hành chính sách khá rõ ràng và chi tiết nhằm tôn vinh và đãi ngộ những nghệ nhân, nghệ sĩ có nhiều cống hiến trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, nhưng thực tế lại không như mong đợi. Từ khi Luật Di sản Văn hóaNghị định 92/2002/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Di sản Văn hóa có hiệu lực, đến nay đã được 7 năm, nhưng các cơ quan chức năng của nhà nước vẫn chưa triển khai áp dụng các điều khoản nêu trên nhằm tôn vinh và đãi ngộ nghệ nhân, nghệ sĩ.
 
Trước tình hình đó, Hội VNDG Việt Nam, một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đã vận dụng các hướng dẫn của UNESCO trong việc thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống để xây dựng Quy chế công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội VNDG Việt Nam. Sau khi quy chế này được BCH Hội VNDG Việt Nam thông qua vào ngày 10.6.2002, Hội VNDG Việt Nam bắt đầu triển khai chương trình tiến cử, lựa chọn và phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho những nghệ nhân có công lao trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam. Từ đợt phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian đầu tiên vào tháng 6.2003 đến đợt phong tặng mới nhất vào tháng 12.2008, Hội VNDG Việt Nam đã phong tặng danh hiệu này cho 118 nghệ nhân, nghệ sĩ có nhiều cống hiến trong 3 lĩnh vực chính: Diễn xướng dân gian và thư pháp; Nghề thủ công truyền thống; Các thú chơi dân gian và ẩm thực. Hiện nay, Hội VNDG Việt Nam vẫn tiếp tục công việc bình chọn và phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian hàng năm thông qua sự giới thiệu tiến cử từ các Chi hội VNDG ở các địa phương.

Về đãi ngộ, do kinh phí hạn hẹp và do những quy định của Bộ Tài chính, nên phần thưởng vật chất trao tặng cho các Nghệ nhân dân gian chỉ mang ý nghĩa động viên. Mỗi Nghệ nhân dân gian được Hội VNDG Việt Nam cấp một Bằng công nhận kèm theo 500.000đ và được tặng thưởng Huy chương Vì sự nghiệp VNDG cùng 100.000đ tiền thưởng. Nhà nước không hỗ trợ thêm khoản ưu đãi vật chất nào. Tuy nhiên, có một số địa phương đã vận dụng những cơ chế riêng để tưởng thưởng và tôn vinh tài năng và công lao của các Nghệ nhân dân gian. Chẳng hạn, từ khi thực hiện chương trình phục hồi Nhã nhạc, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã mời các Nghệ nhân dân gian trong lĩnh vực Nhã nhạc như Lữ Hữu Thi, Trần Kích… đến cộng tác với Trung tâm này để giảng dạy và truyền thụ kinh nghiệm cho các nhạc công trẻ do Trung tâm này tuyển dụng và đào tạo. Mỗi nghệ nhân được trả lương với mức 1.500.000đ/tháng (chưa kể các khoản tiền thưởng trong các dịp lễ, Tết). Đây là mức lương xứng đáng, vừa đủ đối với mức sống bình thường ở Huế. Nhờ thế, các nghệ nhân này không phải lo tìm kế sinh nhai nên yên tâm truyền nghề cho các thế hệ tương lai. Tuy nhiên, phần lớn số tiền được dành để trả lương cho các Nghệ nhân dân gian đang giúp Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đào tạo các nhạc công trẻ đều được trích từ các khoản viện trợ của UNESCO và các tổ chức phi chính phủ khác trong chương trình phục hồi di sản Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn. Chúng tôi hy vọng đến khi các chương trình viện trợ này chấm dứt, thì Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế sẽ tiếp tục sử dụng kinh phí từ các nguồn khác để trả lương cho các Nghệ nhân dân gian này.
 

Trong khi đó, tại nhiều địa phương, việc tiến cử các nghệ nhân bậc thầy trong lĩnh vực văn hóa - văn nghệ dân gian để Hội VNDG Việt Nam xem xét công nhận Nghệ nhân dân gian rất chậm chạp và tắc trách.  

Ví dụ: ở tỉnh Bắc Ninh, vào năm 2005, khi tiến hành xây dựng Hồ sơ Quan họ để đệ trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của nhân loại, Sở VHTT Bắc Ninh đã điều tra điền dã và thống kê một danh mục gồm hơn 60 nghệ nhân để đưa vào hồ sơ, đồng thời hứa hẹn sẽ lựa chọn trong danh mục này những nghệ nhân tài năng và có nhiều cống hiến để tiến cử Hội VNDG Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho họ. Nhưng đến cuối năm 2008, việc phong tặng này vẫn “dẫm chân tại chỗ”. Theo ông Trần Đình Luyện, Giám đốc Sở VH - TT - DL Bắc Ninh hiện nay thì: “Việc phong tặng này bị đã bị tắc lại vô thời hạn vì hai lý do: thứ nhất, nếu phong tặng cho nghệ nhân quan họ thì phải tính đến cả các nghề thủ công dân gian khác như đúc đồng, đan lát, thêu thùa, v.v… vì tất cả đều nằm trong Liên hiệp hợp tác xã tỉnh; thứ hai, việc phong tặng Báu vật nhân văn sống phải thông qua sự xét duyệt của Hội đồng nhân dân”. Ông Trần Đình Luyện cũng cho biết thêm: “Hiện giờ chưa có khoản trợ cấp nào cho các nghệ nhân dân gian, như cụ Khướu (nghệ nhân hát quan họ) được nhà nước phong tặng Nghệ sĩ Ưu tú cũng không nhận được khoản trợ cấp nào”.Phần lớn nghệ nhân trong lĩnh vực văn nghệ dân gian là những người cao tuổi, có vị đã ngót nghét trăm tuổi (như cụ Lữ Hữu Thi), nhiều người sống trong cảnh túng bấn, khó khăn, lại bị bệnh tật, không biết họ có đủ sức chờ đến ngày được tôn vinh và nhận được những khoảng đãi ngộ của nhà nước hay không? Rất nhiều vị đã qua đời trước khi nhận được những tôn vinh và đãi ngộ đáng lẽ họ phải được hưởng, cho dù họ đã được thừa nhận là Báu vật nhân văn sống.
 
Trong bài viết Nghệ nhân dân gian: Cần lắm sự quan tâm đăng trên Văn nghệ quân đội online, tác giả Hoài Thu phản ánh: “Đi sâu tìm hiểu cuộc sống và tâm tư của các Nghệ nhân dân gian vừa được công nhận, mới thấy, họ cần được quan tâm nhiều hơn trong cuộc sống và vốn liếng văn hóa dân gian mà họ đang lưu giữ cần được khai thác hiệu quả hơn. Bốn 4 nghệ nhân ở lĩnh vực bài chòi đều là thành viên của Câu lạc bộ Bài chòi cổ Dân gian Bình Định, nhưng đó là trên danh nghĩa, mỗi khi cần tập hợp lại để hoạt động theo kiểu “tự xoay xở” là chính. Một số nghệ nhân bài chòi như Minh Liễu, Minh Đức… vẫn thường xuyên đi diễn… tuồng để kiếm sống. Nghệ nhân Ngọc Tùng từng là đoàn trưởng Câu lạc bộ Bài chòi cổ Dân gian, có nhiều đóng góp cho phong trào, nhưng từ khi bị tai nạn cách đây hai năm, sức khỏe và trí nhớ bị ảnh hưởng, không đi diễn được, nên hiện chỉ sống nhờ vào sức lao động của vợ. Nghệ nhân Minh Đức lại có gia cảnh nghèo “thâm niên”. Chồng mất sớm, một mình bà phải nuôi 6 người con và một mẹ chồng. Để theo đuổi nghề hát, bà phải làm thêm đủ nghề từ làm ruộng đến bán chổi lông gà, vé số… Nghệ nhân Minh Đức tâm sự: “Căn nhà tôi từ lúc vay mượn sửa lại đến nay đã 10 năm rồi vẫn không tô tường được, hiện đang rất xập xệ, sợ không trụ nổi trong mùa mưa bão. Tôi rất muốn lợp lại mái nhưng lại không có tiền”. Trong khi đó, theo tác giả bài viết Tôn vinh nghệ nhân - “Đến hẹn chẳng lên” đăng trên báo điện tử VietNamNet thì “Theo một bộ phim được chiếu gần đây trên truyền hình Hà Nội về cuộc sống của các geisha ở Nhật Bản cho thấy, các geisha khi về già được chính phủ bao cấp mọi thứ về nhu cầu vật chất. Họ chỉ việc chuyên tâm lo việc truyền nghề cho những maiko trẻ”.
 
Từ thực tế trên có thể nhận thấy rằng: tuy Nhà nước đã ban hành chủ trương, chính sách nhằm tôn vinh và đãi ngộ những Nghệ nhân dân gian, nhưng những chủ trương, chính sách ấy dường như chỉ dừng lại ở trên giấy tờ, chưa thực sự đi vào cuộc sống để phát huy hiệu quả đích thực. Việc tôn vinh và đãi ngộ Nghệ nhân dân gian, lẽ ra phải do những cơ quan cao nhất của nhà nước hoặc chính phủ tổ chức thực hiện, thì lại được “khoán trắng” cho Hội VNDG Việt Nam và các Sở VH - TT - DL ở các địa phương đảm trách. Nguồn kinh phí dành cho việc đãi ngộ và trợ cấp cho các nghệ nhân gặp hoàn cảnh khó khăn chưa được xác định chưa có và cũng chưa xác định rõ: ai cấp? cấp bao nhiêu? cấp như thế nào? Vì thế, các Báu vật nhân văn sống của Việt Nam vẫn sẽ phải tiếp tục chờ đợi. Không ai dám chắc có bao nhiêu người trong số họ sẽ không có đủ thời gian để chờ đợi khi họ đã tuổi cao sức yếu?
 
Kiến nghị
 
Tham khảo chính sách tôn vinh và đãi ngộ Báu vật nhân văn sống của một số nước châu Á và Hướng dẫn thiết lập Hệ thống “Báu vật nhân văn sống” cấp quốc gia (Guidelines for the Esbtablishment of National “Living Human Treasures” Systems) của UNESCO, tôi cho rằng: Việt Nam nên tuân thủ những hướng dẫn của UNESCO trong việc xây dựng tiêu chí bình chọn và công nhận Báu vật nhân văn sống cấp quốc gia[1] và nên học tập kinh nghiệm của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc… trong việc tôn vinh và đãi ngộ các Báu vật nhân văn sống. Cụ thể:
 
- Thay vì phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian như hiện nay, nên thiết lập một danh hiệu mới mang tầm quốc gia để phong tặng cho những người đang nắm giữ, thực hành và truyền dạy những giá trị tiêu biểu của di sản văn hóa phi vật thể. Danh hiệu ấy nên là Báu vật nhân văn sống (Living Human Treasures) như hướng dẫn của UNESCO.
 
- Việc phong tặng danh hiệu Báu vật nhân văn sống nên do một cơ quan nhà nước thực hiện, không nên “khoán trắng” cho một tổ chức xã hội - nghề nghiệp như Hội VHDG Việt Nam đảm trách. Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng Chính phủ là người ký văn bằng phong tặng danh hiệu Báu vật nhân văn sống như trong trường hợp phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân Nghệ sĩ Ưu tú, chứ không phải là Tổng thư ký Hội VNDG Việt Nam ký như hiện hành.
 
- Nhà nước nên chỉ đạo Bộ VH - TT - DL phối hợp với Hội VNDG Việt Nam và một số cơ quan, ban ngành chức năng, lựa chọn các thành viên có uy tín, có trình độ nghề nghiệp cao và có học vấn uyên bác trong lĩnh vực này để thành lập một Hội đồng cố vấn giúp cho việc tiến cử, bình chọn và phong tặng danh hiệu Báu vật nhân văn sống. Quy trình tiến cử, bình xét và phong tặng này phải tuân theo hướng dẫn của UNESCO.
 
- Nhà nước nên dành một khoản ngân sách và giao cho một cơ quan trung ương quản lý để tiến hành trợ cấp thường xuyên và khen thưởng định kỳ cho các Báu vật nhân văn sống. Khoản trợ cấp này phải đảm bảo đủ để các Báu vật nhân văn sống có thể sinh sống để họ yên tâm thực hành, trình diễn các kỹ năng và truyền dạy tri thức, kỹ năng đó cho các truyền nhân kế nghiệp.
 
- Việc thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống ở Việt Nam là một việc làm phức tạp và lâu dài. Mục tiêu cuối cùng của việc làm này là bảo tồn và phát huy văn hoá phi vật thể truyền thống thông qua bảo tồn các kỹ năng, kiến thức của các nghệ nhân. Vì thế, cần chú ý đến việc phát huy vai trò của nghệ nhân sau khi được công nhận; tránh trường hợp nghệ nhân được trao bằng, khen ngợi, tặng thưởng xong rồi tự chìm vào quên lãng. Muốn vậy, nhà nước phải hỗ trợ để các Báu vật nhân văn sống tiếp tục sáng tạo, thực hành, truyền dạy những tri thức và kỹ năng mà họ đang sở hữu. Sau khi được công nhận, các Báu vật nhân văn sống cần được tạo điều kiện để thực hành, trình diễn, triển lãm những kết quả và sản phẩm của họ một cách thường xuyên nhằm phát triển kỹ năng của họ và nâng cao vị thế của ngành nghề trong xã hội. Có như vậy thì các Báu vật nhân văn sống mới tận tâm cống hiến trí tuệ và kỹ năng của họ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.
 
Tôi muốn mượn lời tác giả bài báo Gặp những Báu vật nhân văn sống đăng trên website của Đài Tiếng nói Việt Nam để làm lời kết cho bài viết này: Ở mỗi vùng của đất nước ta, đâu đâu cũng có những nghệ nhân tận tâm, tận lực với văn hóa - nghệ thuật dân tộc. Họ lưu giữ và truyền dạy cho thế hệ trẻ những làn điệu dân ca, sử thi, nghệ thuật đánh cồng chiêng, những bí quyết trong nghề nghiệp. Họ xứng đáng được vinh danh là những Báu vật nhân văn sống. Mong sao, các vị nghệ nhân sẽ được hưởng những chế độ đãi ngộ xứng đáng để tiếp tục lưu giữ, truyền bá và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể của dân tộc ta cho muôn đời con cháu mai sau”.
 
Trân Huyền

 

 
 
 
 
 

 

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Vài chuyện ở địa danh Phủ Cam

Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn, địa danh Phủ Cam ra đời cùng thời với Phủ Dương Xuân dưới thời các chúa Nguyễn. Cho nên phải gọi là Phủ Cam mới đúng.

Vài chuyện ở địa danh Phủ Cam
Tìm về truyền thống thủy quân ở làng xã vùng Huế

Trong lịch sử vùng Huế, những ngôi làng Việt cổ thường nằm dọc lưu vực sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương. Từ làng xã “gốc” phát triển về thượng nguồn hoặc hạ lưu, hình thành những làng “ngọn”. Vùng đất Phú Lộc, ngoài lưu vực sông Truồi, còn có dải cồn cát ven biển và đầm phá có vị trí chiến lược, vành đai an ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng, để bảo vệ Kinh đô Huế.

Tìm về truyền thống thủy quân ở làng xã vùng Huế
Vài nghi vấn từ bia mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ

Trong khuôn viên di tích nhà lưu niệm danh nhân Phan Bội Châu, ngoài di tích nhà ở, nhà thờ và lăng mộ của cụ Phan, còn có nhiều lăng mộ, bia tưởng niệm… của các chí sĩ yêu nước được đưa vào đặt, an táng ở đây; trong đó, có lăng mộ của nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ, một trong những nhân vật được xem là biểu tượng của tinh thần chống Pháp bất khuất cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, ít ai biết vì sao lăng mộ của ông lại được đưa vào an táng trong khuôn viên di tích nhà lưu niệm Phan Bội Châu.

Vài nghi vấn từ bia mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ
Return to top